Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

Những lợi thế

   Trước tiên cần phải thấy rằng Việt Nam có điều kiện để xây dựng ngành hàng hải phát triển từ những lợi thế của riêng mình.

   Thứ nhất, đó là dải bờ biển dài trên 2300 km với nhiều vịnh sâu, kín gió, lý tưởng để xây dựng  hệ thống cảng hiện đại. Vị trí địa lý của Việt Nam nằm ngay sát đường vận tải biển quốc tế, nằm trong khu vực có những cảng quốc tế lưu lượng hàng luân chuyển các loại lớn nhất thế giới. Việt Nam còn là con đường biển gần nhất của bán đảo Đông Dương, bắc Thái Lan và nam Trung Quốc.




   Thứ hai, đây là lợi thế lớn nhất của VIệt Nam có được so với ASEAN. Việt Nam nằm ngay tại khu vực có nền kinh tế phát triển năng động nhất thế giới trong thập kỷ qua, và cũng là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm liền. Đầu tư trực tiếp vào Việt Nam và các nước trong khu vực kéo theo đó là sự gia tăng mạnh mẽ khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu và nhu cầu vận tải biển.

    Mặc dù từ trước năm 1997 lại đây, Đông Bắc Á và Đông Nam Á đang trải qua thời kỳ kinh tế khó khăn nhất, các chuyên gia kinh tế vẫn có dự đoán lạc quan về sự phát triển phồn thịnh của khu vực này trong thế lỷ tới.

   Thứ ba, đó là sự vào cuộc muộn màng của đội tàu Việt Nam. Suy cho cùng thì đây là điểm bất lợi hơn có lợi, tuy nhiên những người đi sau cùng có những lợi thế riêng của họ nhờ nắm bắt được những công nghệ và kinh nghiệm vận tải biển của những người đi trước. Vấn đề là ở chỗ liệu Việt Nam có tìm được cho mình khoảng trống trong thị trường vận tải biển quốc tế hay không?

Tình hình hoạt động.

   VINALINES bao gồm các công ty hàng hải mạnh nhất trong ngành, trên thực tế đã và sẽ trở thành một tập đoàn hàng hải.

   Với vai trò là một tổng công ty mạnh, VINALINES có đủ khả năng liên doanh, liên kết với các đối tác mạnh nước ngoài và có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường vận tải biển quốc tế. Những ưu đãi mà nhà nước dành cho VINALINES cũng như những doanh nghiệp thành viên là một phần trong chính sách bảo hộ của nhà nước đối với ngành hàng hải nói chung và ngành vận tải biển nói riêng. Ở Đông Nam Á, ngoại trừ Singapore, các quốc gia khác đều có những chính sách bảo hộ đối với ngành hàng hải trước sự cạnh tranh gay gắt của những tập đoàn hàng hải lớn trên thế giới.



  Với những lợi thế có được, sản lượng vận chuyển của VINALINES liên tục tăng qua các năm.

Kết quả sản lượng vận tải các năm.
( Đơn vị : tấn)

    Năm 1996    Năm 1997    Năm 1998   
Tổng sản lượng    4.87.089    5.971.231    7.180.000   
Vận tải nước ngoài    4.094.970    4.694.808    5.060.000   
Vận tải trong nước    776.199    1.276.472    2.120.000   

( Nguồn: Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của VINALINES – 1998)

   Mặc dù sản lượng vận chuyển đạt mức cao, nhưng trong thực tế tại tổng công ty, số lượng hợp đồng vận chuyển hàng hoá được ký kết rất ít. Tổng công ty hầu như không trực tiếp ký kết hợp đồng vận chuyển mà chủ yếu là các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty ký kết với các bạn hàng. Tổng công ty chỉ giữ vai trò quản lý, phối hợp hoạt động kinh doanh, bảo vệ, phân chia thị trường trong nội bộ nhằm nhanh chóng thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá toàn ngành trong bối cảnh chung của đất nước.

   VINALINES không phải là doanh nghiệp đọc quyền hoàn toàn bởi vì trong thị trường vận tải biển vẫn còn có sự tham gia của nhiều công ty vận tải biển trong nước và quốc tế khác. Nhiệm vụ cấp thiết của VINALINES là giành lại thị phần vận tải từ các công ty vận tải biển nước ngoài đồng thời phải đảm bảo quyền lợi của chủ hàng thông qua sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thành viên. Để thực hiện điều này, VINALINES đã có những giải pháp phù hợp như:

   Trong lĩnh vực khai thác container, Tổng công ty chỉ tham gia ký kết hợp đồng giảm giá thành vận chuyển container với khối lượng lớn, để thu hút khách hàng tham gia ký kết hợp đồng vận chuyển với các doanh nghiệp thành viên, giành khối lượng hàng vận chuyển cho đội tàu của công ty.
ã    Trong năm 1997, thực trạng của toàn ngành là thị phần vận chuyển hàng hoá của đội tàu Việt Nam chỉ chiếm 25 tổng nhu cầu vận chuyển hàng hoá của cả nước, mà chủ yếu là các tuyến nội địa, trong khi một số hãng tàu biển nước ngoài hoạt động thường xuyên trên các tuyến vận tải biển đến Việt Nam kể cả vận chuyển nội địa. Trước nguy cơ bị lấn chiếm thị trường vận tải biển nội địa, tổng công ty hàng hải Việt Nam, bắt đầu trực tiếp tham gia ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế, tổng công ty uỷ quyền cho các doanh nghiệp thành viên của mình, như: GEMARTRANS, VOSCO… trực tiếp ký kết hợp đồng vận chuyển trên tuyến nội địa, các doanh nghiệp vận tải biển thuộc tổng công ty vẫn tiến hành hoạt động ký kết như thường lệ. Điều này tạo cơ hội cho các doanh nghiệp thành viên nỗ lực phấn đấu thu hút khách hàng.
ã    Trong năm 1998, tổng công ty iếp tục đóng vai trò là người chỉ đạo và điều tiết hoạt động kinh doanh bằng việc thực thi những nhiệm vụ cụ thể:
   Tập trung xây dựng đội tàu vận tải biển và hệ thống cảng biển, cảng cạn trực thuộc theo hướng đi lên hiện đại, nâng cao khả năng cạnh tranh,nhằm từng bước giành lại thị phần vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam. Kết quả là cuối năm 1998 đội tàu của tổng công ty đã tăng lên 69 chiếc, với tổng trọng tải đạt 621.078 DWT và tuổi bình quân của đội tàu giảm xuống còn 18,5 năm.



   Tổ chức khai thác tốt đội tàu và các cơ sở vật chất hiện có để thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh. Kết quả là cuối năm 1998, tổng công ty đạt sản lượng vận chuyển là 7.180.000 tấn hàng hoá, bằng 110% so với kế hoạch đề ra là 6.500.000 tấn.

   Về mặt thủ tục quản lý, tổng công ty đã soạn thảo ra các mẫu hợp đồng vận chuyển hàng hoá. Căn cứ vào mẫu đó, tuỳ từng trường hợp cụ thể, tổng công ty và các thành viên áp dụng, sửa đổi các điều khoản cho phù hợp với loại hàng hoá và phương thức vận chuyển khi ký kết với bạn hàng.

   Thành quả lớn nhất mà tổng công ty đạt được là xây dựng được các mối quan hệ với các tổng công ty xi măng Việt Nam, than Việt Nam… giành quyền vận tải cho đội tàu của tổng công ty, với tư cách là công ty mẹ của các doanh nghiệp vận tải thành viên. Tổng công ty đã ký được hợp đồng vận tải định khung để căn ứ vào đó các doanh nghiệp thành viên như VOSCO, VITRANSCHART, VINASHIP, FALCON… ký các hợp đồng từng chuyến với các tổng công ty. Nhờ đó số lượng hợp đồng tăng lên đáng kể.

   Từ những tìm hiểu về vai trò và nhiệm vụ của tổng công ty hàng hải Việt  Nam, chúng ta có thể thấy rằng sự ra đời của VINALINES gây bất lợi cho các danh nghiệp vận tải biển ngoài tổng công ty nhưng lại làm tăng khả năng cạnh tranh của đội tàu biển Việt Nam trên thị trường vận tải biển.
   Sự phát triển của tổng công ty luôn đồng nghĩa với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp thành viên mà VOSCO là một thí dụ điển hình.

Năm 1997, VOSCO có 15 tàu, tổng trọng tải 214.150 DWT.
Năm 1998 VOSCO nhận bàn giao 2 tàu Hậu Giang và Sông Bến Hải ( 24,6 nghìn DWT) đồng thời mua 3 tàu Sông Tiền, Sông Trà và Sông Hồng ( 19,38 DWT ) nâng tổng số tàu lên 20 chiếc với tổng trọng tải 262.150 DWT và giảm tuổi tàu bình quân xuống còn 17,3 tuổi.

    Ngoài ra, công ty còn ký hợp đồng đóng tàu mới tàu hàng khô 6.500 DWT tại nhà máy đóng tàu Bạch Đằng.



    Cùng với việc bổ sung mới đội tàu, công ty tập trung vào nhiệm vụ khai thác kinh doanh với sản lượng đạt 2420 nghìn tấn nsưm 1998 ( đạt 101 % kế hoạch năm ) . Công ty cũng chú trọng tới chất lượng dịch vụ bằng việc duy trì tình trạng chất lượng tàu theo đúng tiêu chuẩn đăng kiểm, lắp đặt hệ thống tin theo GMDS cho 17 tàu, hoàn thành các quy định về quản lý an toàn quốc tế ( IMS  code) được đăng kiểm cấp DOC cho công ty và SMC cho 9 tàu. Với những việc làm đó, trong năm 1998 toàn công ty đã đạt 462,5 tỷ VNĐ doanh thu, tăng 5% so với kế hoạch, tổng lãi đạt 880 tỷ VNĐ, nộp ngân sách nhà nước 12 tỷ VNĐ và không để sự cố hàng hải nghiêm trọng nào xảy ra.

   ( Nguồn : Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của VOSCO năm 1998)

   Mặc dù không được chăm chút như các doanh nghiệp thành viên của VINALINES, các doanh nghiệp vận tải ngoài tổng công ty hànghải ( chủ yếu các doanh nghiệp địa phương) cũng đang gắng sức mình để tồn tại và phát triển.

    Các doanh nghiệp vận tải đại phương cũng có những lợi thế riêng của họ.
Thứ nhất các doanh nghiệp vận tải địa phương luôn nhận được sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan ban ngành trong chính quyền địa phương. Những hỗ trợ này được thực hiện thông qua các biện pháp kiện toàn đội ngũ lãnh đạo, ổn định bộ máy tổ chức và lực lượng lao động, cho mở thêm ngành nghề kinh doanh dịch vụ hàng hải nhằm trợ cho hoạt động thường xuyên của đơn vị.

   Thứ hai, các doanh nghiệp vận tải đại phương luôn nhận được sự ưu tiên trong việc vận chuyển mặt hàng hoá xuất nhập khẩu của địa phương đó. Việc ổn định các chuyến hàng chuyên chở góp phần đảm bảo hoạt động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp. Có thể lấy một vài ví dụ điển hình.

   Công ty vận tải biển và thương mại Đà Nẵng trong 4 thàng đầu năm 1999 thực hiện vận chuyển 14.122 tấn hàng, chủ yếu xi măng, giấy, dầu cọ với doanh thu trên 2,3 tỷ VNĐ.

   Công ty vận tải Phú Yên đạt sản lượng vận chuyển 7.062 tấn, trong đó chủ yếu là vận tải tuyến nước ngoài với việc xuất khẩu 5 đá khối, nhập khẩu nhựa đường, dầu cọ, tổng doanh thu trên 1,6 tỷ VNĐ.

   Công ty vận tải xăng dầu ( VITACO) thược tổng công ty xây dựng Việt Nam đã thực hiện sản lượng vận tải trong 4 thàng đạt 497.858 m3 chủ yếu là chở thuê). Doanh thu trong nước đạt gần 15,87 tỷ VNĐ và doanh thu ngoài đạt gần 24,8 tỷ VNĐ ( giá trị quy đổi).
Tag: vận tải biển quốc tế, cty vận tải biển, vận tải đường thủy, vận tải đường biển

0 nhận xét :

Đăng nhận xét

Phân trang

Read more: PHÂN TRANG CHO BLOG | dunghennessy Under Creative Commons License: Attribution Share Alike